Mặc Họa trở về phòng tu đạo vừa ngồi xuống, đám đệ tử đã vây quanh hỏi han không ngớt.
"Sư huynh Mặc Họa, giáo tập tìm anh có việc gì thế?"
"Giáo tập có trách phạt anh không?"
Mặc Họa thở dài giải thích: "Giáo tập bảo mỗi ngày sau giờ học phải đến tìm thầy ấy."
Một đệ tử nhanh nhảu: "Chắc chắn là do anh lười biếng trong giờ trận pháp, khiến giáo tập nổi giận, bắt anh phải luyện tập hàng ngày để không bị tụt hậu."
Đệ tử khác đồng cảm: "Vậy thì khổ sở quá, ngày nào cũng phải vẽ trận pháp dưới ánh mắt giáo tập."
"Đúng vậy, thật đáng sợ! Chỉ cần giáo tập liếc nhìn là tôi đã run lẩy bẩy, huống chi còn phải vẽ trận pháp trước mặt thầy..."
Mặc Họa lại thở dài.
Thấy vậy, các đệ tử vội vàng an ủi Mặc Họa.
Kỳ thực, nỗi buồn của Mặc Họa không phải vì phải luyện tập dưới sự giám sát, mà là việc này sẽ chiếm hết thời gian kiếm linh thạch bằng cách vẽ trận pháp cho Trận Các.
Tuy nhiên, khi giáo tập hỏi ý muốn trở thành trận sư, ắt hẳn sẽ chỉ điểm cho anh đôi điều. Nghĩ vậy, Mặc Họa cũng thấy đây là chuyện tốt.
Hôm sau tan học, Mặc Họa đúng hẹn đến phòng giáo tập Nghiêm ở Thông Minh Phong.
Giáo tập Nghiêm đi thẳng vào vấn đề, đặt trước mặt Mặc Họa cuốn "Trận Pháp Điển Luận Sơ Giải".
"Con đường trận pháp muốn đi xa, nền tảng phải vững chắc. Nền tảng này không chỉ bao gồm nắm vững trận văn cơ bản, bút pháp thành thạo, thần thức kiên cố, mà còn cả những luận thuyết nghiên cứu về trận pháp trong giới tu đạo."
"Trận pháp điển luận chính là tâm đắc và lý luận đúc kết từ hàng ngàn trận pháp của các đại trận sư, tìm kiếm chân lý bất biến trong muôn vàn biến hóa của trận pháp."
"Nhiều tu sĩ vẽ trận pháp không tệ, nhưng mù tịt về điển luận. Khi học đến chỗ cao thâm, họ như lạc vào sương mù, khó tiến xa hơn trên con đường trận pháp."
"Ta cách nhất phẩm trận sư còn một bước, tông môn truyền thừa phần lớn đã thất lạc, không thể dạy ngươi những điển luận trận pháp cao thâm. So với các đại tông môn hay thế gia, ta không sánh được. Nhưng với trình độ hiện tại của ngươi, những thứ này đã đủ."
Mặc Họa ngồi ngay ngắn, thần sắc cung kính: "Mong giáo tập chỉ giáo."
Giáo tập Nghiêm gật đầu, lật mở "Trận Pháp Điển Luận Sơ Giải" giảng giải:
"Cuốn sơ giải này ghi chép các nguyên tắc cơ bản của trận pháp: trời tròn đất vuông, phương vị bát quái, ngũ hành tương sinh tương khắc, cùng cấu trúc đơn trận, phức trận và đại trận..."
"Trận pháp là hiện thân của thiên địa quy tắc. Hình tròn bên ngoài, vuông bên trong tượng trưng cho trời tròn đất vuông. Vị trí các trận văn tuân theo nguyên lý bát quái, các trận văn có thuộc tính khác nhau tương sinh tương khắc. Một trận pháp đơn lẻ gọi là đơn trận, nhiều đơn trận kết hợp thành phức trận, còn vô số đơn trận và phức trận liên kết tạo thành đại trận..."
"Đại trận uy lực vô cùng. Các đại trận hộ phái chính là loại này. Một đại trận có thể bao gồm hàng ngàn, thậm chí hàng vạn trận pháp, do hàng chục đến hàng trăm trận sư phối hợp thực hiện. Chỉ những trận sư đỉnh cao mới có thể đảm nhận vị trí chủ trận sư, chịu trách nhiệm thiết kế và khắc vẽ đại trận..."
"Trở thành chủ trận sư, thiết kế một đại trận là khát vọng cả đời của nhiều trận sư."
Giáo tập Nghiêm thở dài đầy cảm khái, rồi nói tiếp: "Nhưng nói điều này còn xa vời. Dù chỉ trở thành nhất phẩm trận sư bình thường cũng đã cực kỳ khó khăn."
Mặc Họa nghe mà lòng tràn đầy khát khao. Một đại trận bao hàm vô số trận pháp huyền diệu, nếu được chứng kiến sẽ là cảnh tượng kinh người biết bao.
Giáo tập Nghiêm do dự một chút, rồi trang trọng trao "Trận Pháp Điển Luận Sơ Giải" cho Mặc Họa:
"Ngươi mang cuốn sơ giải này về nghiên cứu kỹ. Nhớ kỹ không được tiết lộ ra ngoài, cũng không được nhắc đến với bất kỳ ai."
Sau đó, giáo tập Nghiêm giảng giải thêm về một số lý thuyết cơ bản rồi cho Mặc Họa về.
Trở về đệ tử cư, Mặc Họa cầm trên tay cuốn sách mỏng manh mà lòng trĩu nặng. Lần đầu tiên anh thấm thía tầm quan trọng của truyền thừa tu đạo. Không có người chỉ dạy, có lẽ cả đời cũng không tự mình tìm hiểu được những điều này.
Là một đệ tử bình thường mà được giáo tập Nghiêm tận tâm dạy dỗ, Mặc Họa càng thêm biết ơn.
Ổn định tâm thần, Mặc Họa chăm chú đọc từng chữ trong "Điển Luận Sơ Giải", ghi chép cẩn thận những chỗ chưa hiểu để ngày mai thỉnh giáo.
Trước khi ngủ, Mặc Họa lại lật xem "Kim Thạch Trận Đồ", ghi nhớ các trận văn rồi nhắm mắt vào thức hải, luyện tập trên tấm bia đá.
Kim Thạch Trận chỉ có bốn đạo trận văn, không quá khó nhưng cần thời gian làm quen và luyện tập thêm.
Nhờ "Trận Pháp Sơ Giải", Mặc Họa vẽ Kim Thạch Trận Đồ với tư duy rõ ràng hơn hẳn.
Bốn trận văn đặt ở hướng Tây vì Tây thuộc Kim, hợp với thuộc tính trận đồ. Cách vẽ cũng ẩn chứa nhiều ý nghĩa trong quẻ tượng.
Trước đây, Mặc Họa chỉ biết vẽ theo mẫu mà không hiểu lý do. Giờ đã có nhận thức sâu sắc hơn.
Hôm sau lên Thông Minh Phong, giáo tập Nghiêm kiểm tra một số vấn đề trong "Trận Luận". Mặc Họa trả lời trôi chảy, chứng tỏ đã nghiêm túc đọc hết. Giáo tập hài lòng gật đầu.
Mặc Họa tiếp tục trình bày những thắc mắc đã ghi chép. Giáo tập Nghiêm giải đáp tường tận, thần sắc ngày càng hài lòng.
Đến ngày thứ ba, giáo tập Nghiêm lấy ví dụ từ các trận pháp cụ thể để phân tích, giúp Mặc Họa hiểu thêm về lý luận cơ bản.
Giáo tập bắt đầu từ những trận pháp một đạo trận văn, bao gồm Minh Hỏa Trận mà Mặc Họa đã học cùng một số trận pháp mới. Sau đó đến các trận pháp hai đạo trận văn, đều là những thứ Mặc Họa chưa từng thấy. Mặc Họa chăm chú lắng nghe.
Trong số trận pháp bốn đạo trận văn, giáo tập đầu tiên nhắc đến Cố Thổ Trận - trận pháp Mặc Họa đã thành thạo. Nhưng nghe giảng giải, anh mới nhận ra trước giờ mình chỉ biết vẽ mà không hiểu lý do, kiến thức về trận pháp còn nhiều thiếu sót.
Sau Cố Thổ Trận, giáo tập Nghiêm đề cập đến Kim Thạch Trận:
"Kim Thạch Trận và Cố Thổ Trận có công dụng tương tự. Trong ngũ hành, Thổ sinh Kim nên khi tu sĩ xây dựng động phủ, thường dùng Cố Thổ Trận củng cố nền móng và Kim Thạch Trận gia cố kiến trúc. Nhờ quan hệ Thổ sinh Kim, hiệu quả trận pháp sẽ tốt hơn. Hai trận pháp này có thể tham chiếu lẫn nhau..."
Mặc Họa nghe xong bừng tỉnh ngộ.
Giáo tập giảng suốt một canh giờ rồi giao vài bài tập, yêu cầu Mặc Họa tự tìm hiểu ví dụ về tương sinh tương khắc trong trận pháp.
Về đến đệ tử cư, Mặc Họa càng nghĩ càng thấy kỳ lạ.
Nhiều trận pháp giáo tập lấy làm ví dụ chính là những trận anh đã vẽ cho Trận Các.
Minh Hỏa Trận và Cố Thổ Trận đã quá quen thuộc. Kim Thạch Trận là do Quản sự Béo nhờ vẽ. Hôm nay giáo tập đặc biệt giải thích về Kim Thạch Trận Đồ, dù là để minh họa ngũ hành tương sinh nhưng quá trùng hợp.
"Giáo tập và Quản sự Béo có quen biết nhau chăng? Hay giáo tập đã biết những trận pháp ở Hữu Duyên Trai đều do ta vẽ?"
Mặc Họa thầm nghĩ trong lòng.
Mặc Họa đến Hữu Duyên Trai tìm việc làm và được viên quản sự béo (sau này gọi là Mạc quản sự) thông báo về việc thu mua trận pháp Kim Thạch Trận. Sau khi nghiên cứu, Mặc Họa nhận vẽ Kim Thạch Trận và được giao nhiệm vụ. Tại Thông Tiên Môn, Mặc Họa thắc mắc về điểm số "Ất" của mình trong bài tập trận pháp. Nghiêm giáo tập dẫn hắn tới Thông Minh Phong và hỏi về mong muốn trở thành trận sư. Mặc Họa bày tỏ nguyện vọng cầu đạo thông qua trận pháp và được Nghiêm giáo tập đồng ý hướng dẫn riêng.
Mặc Họa được giáo tập Nghiêm hướng dẫn về trận pháp, nhận cuốn "Trận Pháp Điển Luận Sơ Giải" và được giảng giải về nguyên tắc cơ bản của trận pháp. Anh chăm chỉ học tập, trau dồi kiến thức và kỹ năng vẽ trận pháp. Qua các buổi học, Mặc Họa nhận ra giáo tập đã giảng giải về các trận pháp mà anh đã vẽ cho Trận Các, khiến anh thắc mắc về mối quan hệ giữa giáo tập và Quản sự Béo.